Xác định chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế và thu hút đầu tư, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) TP.Hải Phòng đã đẩy mạnh các chương trình giáo dục nghề nghiệp (GDNN), gắn đào tạo với nhu cầu xã hội, nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo,... Ông Nguyễn Cao Lân, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH thành phố đã có trao đổi với phóng viên xung quanh chủ đề này.
Một vài đánh giá của ông về sự phát triển của các cơ sở GDNN trên địa bàn thành phố hiện nay? Ngành đã có những giải pháp nào để nâng cao chất lượng GDNN nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội?
Tính đến hết tháng 3/2024, trên địa bàn TP.Hải Phòng có 40 cơ sở GDNN, gồm: 17 trường cao đẳng, 09 trường trung cấp, 14 trung tâm GDNN) và 25 cơ sở hoạt động GDNN (gồm: 14 trung tâm GDNN - Giáo dục thường xuyên (GDTX) các quận, huyện và 11 doanh nghiệp (DN) có đăng ký hoạt động GDNN).

Hoạt động đào tạo nghề tại Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Bắc bộ
Là cơ quan quản lý nhà nước về GDNN, lao động, việc làm, thời gian qua, Sở LĐ-TB&XH thành phố đã tập trung triển khai có hiệu quả nhiều biện pháp để thúc đẩy, đổi mới GDNN một cách bài bản, chuyên nghiệp và linh hoạt hơn để phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động, nhất là những ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, mũi nhọn.
Theo đó, các cơ sở GDNN đều tập trung đầu tư theo hướng đồng bộ, bảo đảm chất lượng hoạt động như: Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, đội ngũ nhà giáo, đảm bảo tổ chức đào tạo nghề đạt chất lượng theo yêu cầu của nghề trọng điểm quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế tương ứng, như: Nghề điều dưỡng, dược của Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng; nhóm nghề điện công nghiệp, cơ khí,… của Trường Cao đẳng Kỹ thuật Hải Phòng,…
Đặc biệt, các cơ sở GDNN đã kiên trì đổi mới mục tiêu đào tạo theo hướng từ “cung” sang “cầu”; đa dạng hóa phương thức truyền thông, tư vấn, tuyển sinh,… Chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề nghiệp có bước chuyển biến tích cực, kỹ năng nghề của người học sau khi tốt nghiệp được nâng lên. 80-85% số lao động qua đào tạo nghề trình độ cao đẳng được sử dụng đúng nghề; 30% có kỹ năng nghề từ khá trở lên, có một số nghề (Hàn, Dịch vụ nhà hàng, Điều khiển tàu biển…), kỹ năng nghề của sinh viên đã đạt chuẩn quốc tế.
Qua đó bước đầu đáp ứng được nguồn nhân lực có tay nghề cao theo yêu cầu của các khu công nghiệp, DN FDI và DN xuất khẩu lao động. Lao động qua đào tạo nghề tham gia vào hầu hết các lĩnh vực và bước đầu có thể đảm nhận được các vị trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện. Tỷ lệ học sinh, sinh viên, người học nghề có việc làm ngay sau khi ra trường đạt trên 85%, ở một số nghề, tỷ lệ này đạt 100%.
Ông đánh giá thế nào về công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm và sự tham gia của DN trong quá trình đào tạo, tuyển dụng thời gian qua?
Nhằm tăng cường hợp tác giữa cơ sở GDNN và DN trong đào tạo, giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo, Sở LĐ-TB&XH đã tham mưu UBND thành phố ban hành Kế hoạch số 221/KH-UBND ngày 09/10/2018 đẩy mạnh hợp tác giữa lĩnh vực GDNN với DN giai đoạn 2018 - 2030. Đến nay có 25/39 cơ sở GDNN có bộ phận riêng thực hiện nhiệm vụ hợp tác GDNN với DN, chiếm 64%.
Ngoài ra, hiện hầu hết các trường cao đẳng, trung cấp trên địa bàn thành phố đã thực hiện liên kết, hợp tác, phối hợp với DN trong quá trình tổ chức đào tạo GDNN thông qua nhiều hình thức như: DN tham gia xây dựng chương trình đào tạo, giáo trình đào tạo, tiếp nhận học sinh, sinh viên vào thực tập; hỗ trợ cơ sở GDNN về cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, xưởng thực hành;… Nhiều trường cao đẳng, trung cấp đã chủ động phối hợp với DN xây dựng, biên soạn, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo với các hình thức như: Đào tạo là theo niên chế; đào tạo theo tín chỉ.
Thông qua đó, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng của các cơ sở GDNN; chuyển từ đào tạo theo năng lực sẵn có sang đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động, đáp ứng nhu cầu của các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các dự án đầu tư trên địa bàn,...
Tuy nhiên, bên cạnh một số ngành, nghề phổ biến, có nhu cầu cao (dệt may, lắp ráp, chế biến...), một số lĩnh vực ngành, nghề tuyển sinh còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những ngành, nghề nặng nhọc độc hại, như: Hàn, Cắt gọt kim loại, Chế tạo vỏ tàu thủy,... Việc hợp tác liên doanh, liên kết GDNN còn hạn chế; chất lượng đào tạo vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Để tiếp tục cải thiện chỉ số thành phần “Đào tạo lao động” trong Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư, thời gian tới, ngành LĐ-TB&XH thành phố sẽ bám sát những giải pháp nào, thưa ông?
Ngành đang tập trung một số giải pháp cụ thể như:
Tăng cường đổi mới công tác truyền thông GDNN nhằm phối hợp thực hiện có hiệu quả công tác phân luồng vào học GDNN theo chỉ đạo của UBND thành phố tại Kế hoạch số 126/KH-UBND triển khai thực hiện Đề án "Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025" trên địa bàn thành phố. Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành ủy về đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN trên địa bàn thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở GDNN trên địa bàn tăng cường công tác tuyển sinh, đào tạo các trình độ GDNN, nâng cao chất lượng đào tạo; đẩy mạnh công tác kiểm định, tự kiểm định chất lượng cơ sở GDNN; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về GDNN.
Bên cạnh đó, tập trung rà soát, nghiên cứu tham mưu đề xuất tiếp tục đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính lĩnh vực GDNN, tạo điều kiện cho các DN, tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác GDNN.
Trân trọng cảm ơn ông!
Bảo Ngọc (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI