Sau 15 năm kể từ ngày tái lập, diện mạo Bình Phước đã có những đổi thay tích cực: kinh tế tăng trưởng ổn định, chất lượng đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững. Dù đã đạt được những kết quả tích cực, song phía trước vẫn còn rất nhiều những gian nan, thử thách. Phát huy truyền thống, với tinh thần năng động, sáng tạo, Bình Phước đang khơi dậy ý chí và nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp, cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Xung quanh chủ đề này, Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước – ông Trương Tấn Thiệu. Thanh Trà thực hiện.
Sau 15 năm kể từ ngày tái lập, Bình Phước đã có những thay đổi như thế nào và đâu là những động lực phát triển mới giúp tỉnh chủ động đón đầu và tận dụng tốt mọi cơ hội, vững vàng vượt qua thách thức, thưa ông?
Sau 15 năm kể từ ngày tái lập, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước đã có sự phát triển khá. Quy mô tổng sản phẩm trong tỉnh sau 14 năm tăng gấp 6,57 lần so với thời điểm mới tái lập tỉnh. Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 8,6 lần so với năm 1997. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đúng hướng. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng từ 3,89% năm 1997 tăng lên 24,13% vào năm 2010; ngành dịch vụ từ 24,06% tăng lên 28,76%; ngành nông, lâm, thủy sản giảm từ 72,05% xuống còn 47,11% vào năm 2010.
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới. Quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng, thị trường xuất khẩu hiện nay đã được mở rộng đến hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ (thị trường xuất khẩu năm 1997 chỉ có 17 quốc gia). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 1997 chỉ có 1 dự án với số vốn đăng ký là 20,58 triệu USD, đến 31/12/2010 có 81 dự án; có 3 dự án của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đầu tư ra nước ngoài. Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Năm 1997 toàn tỉnh chỉ có 176 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký là 35 tỷ đồng thì đến ngày 31/12/2010 đã có 2.848 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký là 19.657 tỷ đồng, gấp 16,2 lần về số doanh nghiệp và gấp 262 về số vốn đăng ký.
Văn hóa, xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, trình độ dân trí được nâng lên. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo, y tế tăng lên qua các năm, quy mô các trường, lớp học các cấp, cơ sở khám chữa bệnh được mở rộng. Hoạt động văn hóa, thể thao, truyền thông … phát triển đa dạng, đổi mới về nội dung và hình thức, góp phần cải thiện đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm được thực hiện tốt, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4% vào năm 2010.
Hiện nay, mặc dù tỉnh Bình Phước vẫn còn những khó khăn nhất định nhưng đã tạo được thế và lực mới trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng, vùng Đông Nam Bộ và cả nước nói chung. Từ kết quả của 15 năm xây dựng và trưởng thành, có thể nhìn nhận trong giai đoạn hiện nay tỉnh đang có những cơ hội lớn trong phát triển kinh tế. Đó là việc cải thiện, nâng cao hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng tài nguyên đất, cải thiện môi trường đầu tư …, thu hút đầu tư sẽ thuận lợi hơn do có sự thành công của hội nhập quốc tế, các tỉnh bạn trong vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp đã được quy hoạch, phần lớn là đất không cần đầu tư giải tỏa đền bù, tỉnh sẽ lựa chọn các nhà đầu tư có tiềm năng hiệu quả kinh tế xã hội cao vào lấp đầy các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng sẽ đối mặt với những thách thức như đội ngũ cán bộ công chức, các doanh nghiệp trên địa bàn không theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế nói chung, năng suất hiệu quả và năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện …, nguy cơ phát sinh từ bất ổn kinh tế vĩ mô của đất nước kéo theo đầu tư giảm, tăng trưởng thấp làm cho thu nhập và đời sống nhân dân bị ảnh hưởng. Vì vậy, trong thời gian tới tỉnh sẽ phải tiếp tục phấn đấu và tận dụng mọi cơ hội để vượt qua khó khăn, thách thức vươn lên trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Được biết Bình Phước đã thông qua quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 – 2020. Ông có thể nói rõ hơn về quy hoạch này?
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015 xác định 3 chương trình đột phá để phát triển KT-XH đến năm 2015, trong đó có chương trình “đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực”.
Theo đó tỉnh đang xây dựng và tổ chức thực hiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 - 2020, ưu tiên cho vùng nông thôn, nông dân và đồng bào dân tộc ít người. Nội dung của quy hoạch này gồm các phần như phân tích đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội và nhân lực của tỉnh, đề ra phương hướng phát triển nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011 - 2020. Trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp phát triển nhân lực của tỉnh và tổ chức thực hiện quy hoạch.
Để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, tỉnh có những giải pháp cụ thể gì? Làm thế nào để các giải pháp trên sớm đưa vào thực tiễn và phát huy tác dụng nhanh chóng, thưa ông?
Để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011, tỉnh đề ra 5 nhóm giải pháp chủ yếu: Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 11 của Chính phủ, trong đó chú trọng đến cắt giảm đầu tư công, triệt để tiết kiệm trong chi ngân sách Nhà nước; thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; tăng cường bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Các nhóm giải pháp này được xây dựng với tinh thần bám sát và cụ thể hóa các nhóm giải pháp của Chính phủ đề ra và đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp nghiêm túc thực hiện các nhóm giải pháp trên và thực tế đã phát huy tác dụng như đã tiết kiệm trong chi thường xuyên của 9 tháng đầu năm 2011 là 39,923 tỷ đồng, cắt giảm đầu tư công 32 công trình đã ghi kế hoạch vốn năm 2011 với số vốn là 68,813 tỷ đồng; hỗ trợ tiền điện cho 14.453 hộ nghèo với số tiền là 1,734 tỷ đồng.
Xin ông cho biết kết quả những chương trình trọng điểm của Chính phủ đã và đang được triển khai trên địa bàn tỉnh và sự tác động của những chương trình này đối với việc thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội của địa phương và đời sống đồng bào các dân tộc trong tỉnh?
Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương, tỉnh đã được thụ hưởng các chương trình của Chính phủ như chương trình 134, 135, 160, 168, 190, 33; nước sạch và vệ sinh môi trường, giảm nghèo, việc làm … Việc đầu tư thực hiện các chương trình của Chính phủ trên địa bàn tỉnh là chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với cuộc sống của người dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Kết quả của việc đầu tư từ các chương trình trong thời gian qua đã góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ở các xã ở vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao thương trao đổi hàng hóa, chất lượng thụ hưởng các phúc lợi xã hội ngày càng được nâng cao; người dân có điện thắp sáng, có nước sạch sử dụng; trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, thụ hưởng các dịch vụ y tế, đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đặc biệt là người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện và nâng cao; làm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc và giữa các vùng trong tỉnh.
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI