Mặc dù là tỉnh nằm trong vùng trung du và miền núi phía Bắc, điều kiện tự nhiên còn nhiều khó khăn, song với sự quan tâm chỉ đạo, định hướng của tỉnh, hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã có bước tiến đáng kể. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) ngày càng đi vào chiều sâu, có tính ứng dụng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Đoàn công tác do ông Mai Sơn - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bắc Giang làm trưởng đoàn, đến thăm và kiểm tra tiến độ thực hiện các đề tài khoa học năm 2023 tại Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Hải Thịnh
Tập trung vào chiều sâu, thực chất
Ông Nguyễn Thanh Bình, Giám đốc Sở KH&CN tỉnh cho biết: Trong quá trình phát triển và hội nhập, Bắc Giang xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là khâu đột phá để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của hàng hóa. Đây cũng được coi là động lực hàng đầu để tỉnh phát triển nhanh và bền vững.
Thực hiện các định hướng, chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, những năm qua, các hoạt động KH&CN và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh được tăng cường, thúc đẩy, lan tỏa ở tất cả các lĩnh vực. Bắc Giang đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp khuyến khích các tổ chức sản xuất, kinh doanh (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) trên địa bàn nghiên cứu chế tạo, tiếp nhận chuyển giao, ứng dụng công nghệ, thiết bị mới vào hoạt động sản xuất, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Sản xuất công nghiệp đã có bước phát triển vượt bậc, tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ cao như: Sản phẩm của Apple Watch, máy bay không người lái, một số sản phẩm điện tử, máy tính và phụ kiện, sản phẩm quang học, pin năng lượng mặt trời,... Đây là những sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thúc đẩy phát triển công nghiệp của tỉnh theo hướng công nghiệp công nghệ cao.
Trong sản xuất nông nghiệp, Bắc Giang đã xây dựng được 766 mô hình ứng dụng công nghệ cao; đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao tạo ra chuỗi giá trị như: Vùng chăn nuôi gà đồi Yên Thế, vùng chăn nuôi và tiêu thụ lợn sạch Tân Yên,... Bắc Giang đang hình thành vùng cây ăn quả trọng điểm quốc gia theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, với quy mô gần 50 nghìn ha, trong đó Lục Ngạn là nòng cốt với các sản phẩm chủ lực như vải thiều, cam, bưởi, ổi, táo,… được sản xuất theo tiêu chuẩn GAP.
Thống kê từ năm 2015 đến nay, tỉnh đã đề xuất Bộ KH&CN hỗ trợ 23 doanh nghiệp chủ trì thực hiện 11 dự án KH&CN cấp quốc gia và 12 dự án cấp tỉnh với tổng kinh phí gần 140 tỷ đồng. Kết quả, nhiều mô hình được hình thành, ứng dụng đem lại hiệu quả cao. Các dự án thuộc một số lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, sản xuất dược liệu,... đều chú trọng đến chuyển giao, làm chủ các quy trình công nghệ, kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu gắn với thị trường hàng hóa, khai thác lợi thế sản phẩm chủ lực của địa phương.
Từ năm 2018 đến nay, 15 doanh nghiệp được hỗ trợ kinh phí đầu tư hệ thống quản lý chất lượng, quản lý môi trường, an toàn thực phẩm; áp dụng công cụ 5S với tổng số tiền hơn 310 triệu đồng. Nhờ đó, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vì một Bắc Giang phát triển nhanh, bền vững
Bắc Giang là địa phương đầu tiên trong cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch xác định: “Phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu xuyên suốt, dựa chủ yếu vào KH&CN và đổi mới sáng tạo, đưa KH&CN, kinh tế tri thức và chuyển đổi số toàn diện trở thành nhân tố đóng góp chủ yếu cho nâng cao chất lượng tăng trưởng”.
Từ những định hướng đúng đắn và phương pháp, cách làm quyết liệt, sáng tạo, hiệu quả, hoạt động KH&CN, đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến mục tiêu “Vì một Bắc Giang phát triển toàn diện, vững chắc”. |
Với mục tiêu “Phát triển tỉnh Bắc Giang bền vững trong thời gian tới là một trong các địa phương dẫn đầu cả nước về quy mô kinh tế và mức độ phát triển công nghệ vào năm 2025”, ngành KH&CN sẽ tiếp tục phát triển các sản phẩm khoa học, công nghệ, trong đó, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, đặc trưng. Ưu tiên công nghệ lõi để tiếp cận, chuyển giao; nâng cao hơn nữa hiệu quả chủ trương khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ ở Bắc Giang.
Đẩy mạnh quảng bá, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, bao bì, nhãn mác và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng chính sách hỗ trợ xác lập quyền sở hữu công nghiệp và phát triển nhãn hiệu cho các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2020 - 2025. Phấn đấu đến năm 2030 có 90% số sản phẩm chủ lực, đặc trưng, tiềm năng của tỉnh được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu công nghiệp.
Phát huy hiệu quả của chính quyền điện tử, chính quyền số trong việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu của người dân. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, xây dựng cơ sở dữ liệu số ngành KH&CN, đáp ứng yêu cầu toàn bộ dữ liệu phải được số hóa, quản lý và khai thác trực tuyến.
Bên cạnh đó, chú trọng đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công nghệ cao, tạo điều kiện, hỗ trợ các tổ chức khoa học công nghệ, doanh nghiệp hợp tác quốc tế phục vụ nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ cao, đặc biệt là với quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức nước ngoài có trình độ KH&CN tiên tiến.
Đồng hành cùng các doanh nghiệp, Sở sẽ đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và giải quyết các thủ tục hành chính (TTHC); nâng số lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ toàn trình, một phần và dịch vụ bưu chính công ích…
Năm 2022 và 2023, Sở KH&CN tỉnh đã tiếp nhận tổng số 1.230 hồ sơ TTHC; trong đó hồ sơ phát sinh trực tuyến mức độ toàn trình và một phần là 1.005 hồ sơ, đạt 82%. Số hồ sơ đã giải quyết đạt 1.221 hồ sơ, không có hồ sơ nào quá thời hạn. Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC tại Bộ phận một cửa đạt 100%. 100% TTHC có yêu cầu nghĩa vụ tài chính được triển khai thanh toán trực tuyến, trong số đó, tỷ lệ giao dịch thanh toán trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công đạt 80,7%.
Nguyệt Thắm (Vietnam Business Forum)