Thời điểm mới tái lập, Trà Vinh là một trong những tỉnh khó khăn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong bối cảnh đó, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ tỉnh đã đề ra chủ trương đúng đắn, toàn diện, phù hợp với điều kiện thực tế, tạo sự thống nhất cao trong nội bộ và đồng thuận trong nhân dân; đồng thời tranh thủ sự chỉ đạo của Trung ương, sự hỗ trợ của các bộ, ban ngành, từng bước đưa Trà Vinh vươn lên, tạo dựng vị thế mới trong khu vực và cả nước. Cùng tìm hiểu thêm về những "quả ngọt" tỉnh Trà Vinh gặt hái được sau 30 năm tái lập (1992 - 2022) thông qua nội dung trao đổi với ông Lê Văn Hẳn, Chủ tịch UBND tỉnh. Công Luận thực hiện.
![]() |
30 năm qua, bằng tiềm năng, thế mạnh sẵn có cùng với sự nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã đưa tỉnh Trà Vinh vươn lên gặt hái những thành tựu kinh tế -xã hội nổi bật nào, thưa ông?
Thành tựu rõ nét nhất của Trà Vinh trong 30 năm qua là sự phấn đấu của cả hệ thống chính trị cùng sự đồng thuận của người dân và cộng đồng DN. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu. Khối đại đoàn kết 03 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa không ngừng được tăng cường, củng cố. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhân dân Trà Vinh đã đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Đến nay, tỉnh đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh và tập trung phục hồi, ổn định sản xuất.
Kinh tế tăng trưởng, quy mô nền kinh tế được mở rộng, GRDP tăng khá: Giai đoạn 1996 - 2000 tăng 8,87%; giai đoạn 2000 - 2010 tăng 11,64%; giai đoạn 2010 - 2015 tăng 11,53%; giai đoạn 2016 - 2020 tăng 9,41%. GRDP bình quân đầu người năm 1992 khoảng 0,73 triệu đồng/người/năm, đến cuối năm 2021 đạt 63,15 triệu đồng/người/năm, gấp 86,5 lần so năm 1992. Nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới có nhiều khởi sắc, kinh tế nông nghiệp tăng trưởng mạnh phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, từng bước hình thành và phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung phục vụ công nghiệp chế biến, giá trị sản phẩm thu được trên diện tích đất trồng trọt từ 4,5 triệu đồng/ha năm 1992 tăng lên 140 triệu đồng/ha năm 2021; trên diện tích đất mặt nước nuôi trồng thủy sản từ 27 triệu đồng/ha năm 1992 tăng lên 325 triệu đồng/ha năm 2021, đặc biệt có nơi trên 500 triệu đồng/ha.
Sản xuất công nghiệp phát triển vượt bậc; năm 1992 giá trị sản xuất chỉ đạt 270 tỷ đồng, đến cuối năm 2021 ước đạt trên 32.015 tỷ đồng (gấp 118 lần). Toàn tỉnh có 1 KKT; 3 KCN; 4 cụm công nghiệp (trong tổng số quy hoạch 16 cụm). Thương mại - dịch vụ có bước phát triển đáng kể; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 1992 đạt 702 tỷ đồng, năm 2021 ước đạt 31.412 tỷ đồng (gấp 44 lần).
Hàng năm thu ngân sách đạt và vượt kế hoạch đề ra; nếu như năm 1992 thu nội địa chỉ đạt 40 tỷ đồng thì đến năm 2021 con số này đã tăng lên 5.062 tỷ đồng (gấp 126 lần). Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đạt nhiều kết quả quan trọng, tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm đều tăng, năm 2021 đạt trên 31.515 tỷ đồng. Hệ thống giao thông đường bộ phát triển nhanh; đầu tư đưa vào sử dụng nhiều công trình mới kết nối khá thuận tiện với TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh ĐBSCL.
Tỉnh chú trọng phát triển lưới điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, tỷ lệ hộ được sử dụng điện từ 7,14% vào năm 1992 tăng lên 99,25% năm 2021. Đã xây dựng Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải với tổng công suất 4.498MW; dự án điện mặt trời Trung Nam công suất 140MW; 5 dự án điện gió đi vào hoạt động; đầu tư cơ bản hoàn thiện các đường dây truyền tải điện liên tỉnh 500kV, 220kV... Toàn tỉnh có 171 hợp tác xã đang hoạt động, khoảng 3.300 DN, giải quyết việc làm cho trên 96.500 lao động; có 385 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó có 42 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 3,1 tỷ USD.
Song song với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng được quan tâm thực hiện tốt. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển vượt bậc, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được tốt hơn; độ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân đạt 96%. Các chế độ, chính sách giảm nghèo, người có công được triển khai đồng bộ, kịp thời, có hiệu quả. An ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Để đưa Trà Vinh trở thành một trong những tỉnh trọng điểm phát triển kinh tế biển của vùng ĐBSCL theo như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đề ra, tỉnh sẽ tập trung vào những nhiệm vụ mang tính chiến lược nào, thưa ông?
Kinh tế biển tăng trưởng bình quân 10,5%; giá trị sản xuất các huyện, thị xã ven biển đóng góp khoảng 70% tổng giá trị sản xuất của toàn tỉnh Trà Vinh; giá trị tăng thêm ngành thủy sản bình quân khoảng 3,6%/năm; thu nhập bình quân đầu người các huyện, thị xã ven biển gấp khoảng 1,1 lần so với thu nhập bình quân chung của tỉnh. Công tác quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên, môi trường biển được triển khai đồng bộ, bước đầu đạt kết quả nhất định. Kết cấu hạ tầng các huyện, thị xã ven biển được quan tâm đầu tư.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được, phát triển kinh tế biển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của tỉnh. Do đó, Đại hội Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ XI đã đề ra mục tiêu "Huy động tối đa nguồn lực, đầu tư kết cấu hạ tầng gắn liền với liên kết vùng, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững theo hướng xây dựng Trà Vinh trở thành một trong những tỉnh trọng điểm phát triển kinh tế biển của vùng ĐBSCL". Để hiện thực hóa mục tiêu này, thời gian tới tỉnh tập trung triển khai 6 giải pháp chủ yếu: Rà soát, điều chỉnh và xây dựng đồng bộ các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển; tập trung phát triển khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản; phát triển KKT Định An, các KCN trong KKT và công nghiệp ven biển, các dự án đầu tư trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế biển; phát triển năng lượng tái tạo, phấn đấu đến năm 2025 sản lượng điện sản xuất đạt 43,8 tỷ KWh; phát triển đô thị ven biển, quy hoạch xây dựng TX.Duyên Hải đạt tiêu chí đô thị loại III hướng đến đô thị thông minh vào năm 2030; đẩy mạnh phát triển du lịch, thương mại - dịch vụ, thực hiện tốt Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Để phát triển tiềm năng năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, những năm qua vấn đề xúc tiến, thu hút đầu tư vào lĩnh vực này được tỉnh chú trọng ra sao và kết quả đạt được?
Trà Vinh có địa hình bao bọc bởi sông Tiền và sông Hậu với 2 cửa Cung Hầu và Định An, lợi thế bờ biển dài 65km, tốc độ gió hàng năm trung bình 6,4 - 6,8m/s. Triển khai Công văn số 795/TTg-CN ngày 25/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 13309/QĐ-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch phát triển điện gió tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2020, có xét đến năm 2030, tính đến cuối năm 2021, UBND tỉnh Trà Vinh đã cấp chủ trương đầu tư cho 9 dự án với tổng công suất 666MW. Đến ngày 31/10/2021, đưa vào vận hành thương mại (COD) 5 dự án với tổng công suất phát điện 256,8/322MW. Tiếp tục hỗ trợ nhà đầu tư triển khai 4 dự án có công suất 344MW còn lại. Ngoài ra, nhằm tối ưu hóa tiềm năng năng lượng tái tạo, có điều kiện phát triển nhiều dự án về năng lượng quy mô lớn, UBND tỉnh Trà Vinh đã kiến nghị Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét đưa nguồn năng lượng điện gió trên địa bàn tỉnh vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (Quy hoạch điện VIII).

Nhiệt điện Duyên Hải góp phần đảm bảo an ninh năng lượng
Sau khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt, Trà Vinh sẽ tập trung hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai theo quy định. Đồng thời phối hợp với các địa phương trong tỉnh hỗ trợ chủ đầu tư, tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trạm biến áp và lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối, sớm hoàn thành đóng điện vận hành, nhằm giải tỏa công suất của các nhà máy phát điện từ nhiệt và năng lượng tái tạo đảm bảo cung cấp điện tin cậy, ổn định cho phụ tải của tỉnh và các tỉnh lân cận.
Năm 2022 được nhận định là năm có nhiều khó khăn đối với mục tiêu tăng trưởng của Trà Vinh, nhất là khi tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng GRDP đạt từ 10-11%. Đâu là giải pháp đột phá để tỉnh đạt được mục tiêu này, thưa ông?
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra mục tiêu "Trà Vinh đạt chuẩn Nông thôn mới trước năm 2025, là tỉnh phát triển trong nhóm đầu của khu vực ĐBSCL trước năm 2030", đồng thời phấn đấu tăng trưởng GRDP bình quân hàng năm đạt từ 10 - 11%; chỉ tiêu tăng trưởng GRDP năm 2022 đặt ra 10 - 11% trên cơ sở bám sát vào mục tiêu Đại hội. Đây là chỉ tiêu cao nhất khu vực ĐBSCL và cũng nhiều thử thách đối với tỉnh. Để đạt được mục tiêu đó, năm 2022 tỉnh tập trung triển khai các Chương trình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong đó có các chương trình quan trọng như: Chương trình số 10-CTr/TU về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao Chỉ số PCI tỉnh Trà Vinh đến năm 2025; Chương trình số 11-CTr/TU về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030; Chương trình số 21-CTr/TU về phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh, giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình số 22-CTr/TU về phát triển kinh tế đô thị tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030… Triển khai Chương trình phục hồi và phát triển KT - XH theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ. Hoàn chỉnh lập Quy hoạch tỉnh Trà Vinh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050...
Phát huy lợi thế là địa bàn có vị trí quan trọng, là trung tâm cửa ngõ hướng ra biển Đông của khu vực ĐBSCL, Trà Vinh tập trung tận dụng sự hỗ trợ của Chính phủ, các chính sách ưu đãi hiện hành của Nhà nước, phát huy tiềm năng, lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng, đặc biệt ưu tiên phát triển: Kinh tế biển và ven biển; nông nghiệp công nghệ cao; công nghiệp chế biến tinh, sâu các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp; công nghiệp cơ khí, sửa chữa, đóng tàu, công nghiệp phụ trợ, logistics; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ. Vận dụng có hiệu quả hoặc cụ thể hóa các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, tạo lập môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, chú trọng tạo quỹ đất sạch mời gọi đầu tư. Ngoài ra, với phương châm "DN là trung tâm cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế" của tỉnh, nhất là trong giai đoạn phục hồi và tăng trưởng kinh tế hiện nay, Trà Vinh tiếp tục thực hiện mô hình "Chính quyền, công sở thân thiện và trách nhiệm", "Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả" phục vụ nhân dân và DN.
Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI