Những năm gần đây, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Quảng Nam đã tạo dấu ấn mạnh mẽ từ quá trình tái cơ cấu. Ông Phạm Viết Tích - Giám đốc NN&PTNT tỉnh Quảng Nam đã chia sẻ với phóng viên Vietnam Busines Forum xung quanh những chuyển biến này.
Sau 7 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững (theo Quyết định 2277/QĐ-UBND ngày 20/8/2013 của UBND tỉnh), Quảng Nam đã đạt được kết quả nổi bật nào, thưa ông?
Những năm qua, ngành NN&PTNT tỉnh Quảng Nam đã đạt nhiều kết quả nổi bật. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực; giá trị tổng sản phẩm nông, lâm, thủy sản (theo giá so sánh 2010) giai đoạn 2016 - 2020 tăng trên 4%/năm; cơ cấu nội ngành giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp và tăng tỷ trọng lâm nghiệp, thủy sản. Giá trị trồng trọt tăng từ 64,58 triệu đồng/ha canh tác năm 2013 lên 88 triệu đồng/ha năm 2019 và 92 triệu đồng/ha năm 2020; đã chuyển đổi gần 5.000 ha đất lúa sang các giống, loại cây giá trị cao.

Tỉnh phát triển mạnh chăn nuôi tập trung, quy mô lớn và chuyển dịch mạnh từ vùng mật độ dân cư cao đến vùng mật độ dân cư thấp. Hiệu quả, chất lượng sản phẩm chăn nuôi nâng lên, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường.
Sản lượng thủy sản tăng qua các năm: năm 2020 tăng 1,14 lần so năm 2016; tỷ trọng đánh bắt xa bờ đạt 45% tổng sản lượng khai thác.
Lĩnh vực lâm nghiệp đạt mức tăng mạnh (11,03%/năm). Toàn tỉnh có gần 10.000 ha rừng trồng được cấp chứng chỉ FSC; 3.500 hộ phát triển cây sâm Ngọc Linh từ nguồn vốn tín dụng.
Cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn chuyển biến tích cực; các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ ở nông thôn có bước phát triển. Toàn tỉnh có trên 400 doanh nghiệp (DN) đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn (NN&NT), trong đó lĩnh vực sản xuất, chế biến nông, lâm, thuỷ sản có 164 dự án đã và đang đầu tư, đăng ký thực hiện.

Thủy lợi và hạ tầng phục vụ sản xuất ngày càng hoàn thiện, việc ứng dụng khoa học công nghệ được đẩy mạnh.
Đến cuối năm 2020, có 118 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Sau 3 năm triển khai (2018-2020), Quảng Nam có 206 sản phẩm OCOP được UBND tỉnh công nhận; trong đó có 179 sản phẩm đạt 3 sao, 26 sản phẩm đạt 4 sao, 1 sản phẩm đạt tiềm năng 5 sao.
Để đẩy mạnh thu hút đầu tư vào NN&NT, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, thực thi nhiều chính sách hỗ trợ DN, nhà đầu tư. Ông nhìn nhận thế nào về việc thực thi các chính sách này?
Hiện chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực NN&NT rất nhiều nhưng cụ thể nhất vẫn là Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ và Nghị quyết số 45/2018/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về cơ chế, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào NN&NT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Nghị quyết 17/2019/NQ-HĐND về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp... Cơ chế, chính sách của tỉnh đã tạo thuận lợi cho nhà đầu tư (nhất là quy mô nhỏ) vào lĩnh vực NN&NT.
Từ năm 2015 đến nay, tỉnh đã hỗ trợ 15 dự án với với tổng kinh phí 93.793 triệu đồng và con số này sẽ tăng nhiều trong năm 2021. Song trong quá trình thực thi chính sách còn một số vấn đề cần được quan tâm hơn, cụ thể như:
Trước hết, có rất ít nhà đầu tư tiếp cận được cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ. Nguyên nhân do một số chưa nắm rõ quy trình thực hiện thủ tục đầu tư và thủ tục để được hưởng ưu đãi. Bên cạnh đó là sự chồng chéo giữa các văn bản trong khi một số nhà đầu tư chỉ quan tâm đến vấn đề sản xuất kinh doanh của đơn vị chứ không quan tâm đến chính sách hỗ trợ. Hiện ngành NN&PTNT đã, đang phối hợp với các sở, ngành tham mưu UBND tỉnh tích cực tháo gỡ.

Vấn đề thứ hai là việc trục lợi chính sách: một số nhà đầu tư lấy danh nghĩa đầu tư vào nông nghiệp để việc vay vốn nhưng lại đầu tư cho hạng mục khác. Đây là vấn đề phức tạp cần có sự quan tâm của nhiều ngành và các ngân hàng.
Hiện việc thúc đẩy phát triển lĩnh vực NN&NT trên địa bàn gặp vướng mắc lớn nhất là về đất đai. Dự án đầu tư vào nông nghiệp đa số có yêu cầu diện tích đất quy mô lớn để chủ động được nguồn nguyên liệu. Tuy nhiên, theo Luật Đất đai, đa số các dự án nhà đầu tư phải tự thỏa thuận với người dân để thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng dẫn đến nhiều khó khăn. Hơn thế, phần lớn dự án đầu tư vào nông nghiệp đều nằm ở vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và chi phí đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng rất lớn. Đặc điểm địa hình bị chia cắt mạnh; khí hậu, thổ nhưỡng giữa các vùng khác nhau rõ rệt mặc dù tạo thuận lợi để phát triển đa dạng sản phẩm nông nghiệp nhưng lại cản trở việc phát triển hàng hóa có yêu cầu lớn về số lượng.
Để giải quyết các vấn đề trên, Sở NN&PTNT sẽ phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, các sở, ngành khác nghiên cứu lồng ghép các quy hoạch của ngành nông nghiệp vào quy hoạch chung của tỉnh; đồng thời rà soát, đề xuất quy hoạch các vùng chuyên canh. Từ đó sẽ có các giải pháp huy động nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm thu hút các nhà đầu tư; đặc biệt là các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC), các nhà máy chế biến các sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Quảng Nam đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn vào NN&NT như: T&T, Trường Hải, Kraig Biocraft Laboratories... Việc đón được “đại bàng” mang ý nghĩa ra sao đối với sự phát triển của ngành; đồng thời tỉnh đang đẩy mạnh việc gắn kết giữa “đại bàng” với “chim sẻ” (DN nhỏ và vừa, hợp tác xã) ra sao?
Việc thu hút được các nhà đầu tư có quy mô lớn có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển NN&NT Quảng Nam. Tỉnh kỳ vọng những thay đổi tích cực từ các nhà đầu tư lớn gồm:
(1) Thay đổi về công nghệ sản xuất, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp để có sản phẩm đạt chất lượng theo yêu cầu thị trường, thị hiếu ngày càng cao;
(2) Thay đổi tư duy sản xuất của nông dân từ nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa có định hướng thị trường, (3) Giải quyết nỗi lo tiêu thụ sản phẩm cho người dân.
Trong xu hướng của nền kinh tế thị trường thì việc liên kết giữa nhà đầu tư lớn với các DN nhỏ, hợp tác xã và nông dân có ý nghĩa quan trọng, được tỉnh quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp như: Cải thiện môi trường đầu tư, tập trung chỉ đạo thí điểm một số khu để tạo quỹ đất trên cơ sở rà soát lại trên từng địa bàn, khu vực vùng miền; hỗ trợ kết nối DN đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại chỗ với DN đang xúc tiến đầu tư. Đây là điều kiện để xây dựng hệ thống kết nối sản xuất, tiêu thụ và chế biến trong chuỗi giá trị thông qua việc tổ chức thành mối liên kết chính thức và xây dựng quy chế hoạt động các hiệp hội để đẩy mạnh thu hút, khuyến khích DN đầu tư vào NN&NT.
Ngoài chính sách thu hút đầu tư vào NN&NT theo Nghị quyết số 45/2018/NQ-HĐND của HĐND; Nghị quyết 17/2019/NQ-HĐND… tỉnh cũng đẩy mạnh việc hoàn thiện cơ chế về tích tụ, tập trung đất đai. Hiện tỉnh đang khuyến khích việc liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho một số lĩnh vực (sản xuất lúa giống; tôm giống; trồng rừng gỗ lớn; sản xuất các sản phẩm rau, củ, quả theo hướng an toàn…), bước đầu mang lại hiệu quả cao. Do vậy khi các dự án đầu tư lớn triển khai, Quảng Nam sẽ có nhiều lợi thế trong việc kết nối giữa các nhà đầu tư lớn với các DN nhỏ, HTX và người nông dân.
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XXII, trong giai đoạn 2021-2025, Quảng Nam sẽ nghiên cứu các Đề án về chính sách tích tụ, tập trung đất đai và cơ cấu lại ngành NN&PTNT... Ông có chia sẻ gì xung quanh các đề án này?
Để tiếp tục thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng gia tăng giá trị, đem lại hiệu quả cần thay đổi cách thức vận hành. Đó là sự thay đổi phương thức tổ chức sản xuất để tạo động lực cho các tác nhân; điều chỉnh về mục tiêu, cơ cấu từng lĩnh vực cụ thể (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp) bằng nhiều đề án, cơ chế, chính sách; về nguồn lực phát triển; xác định nhiệm vụ và đề xuất các định hướng chính cho việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp làm cơ sở cho việc triển khai các chương trình hành động lớn, các dự án cụ thể từng lĩnh vực của ngành.
Tổ chức sản xuất lại nông nghiệp theo hướng hàng hóa, gắn với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Phát triển những nhóm sản phẩm chủ lực có lợi thế cạnh tranh dựa trên tiềm năng, lợi thế và nhu cầu sản phẩm xã hội, đáp ứng cho xuất khẩu. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa, chú trọng phát triển sản phẩm NNCNC, hữu cơ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển NN&NT và tăng cường kết nối toàn diện giữa các vùng miền, đô thị - nông thôn, phát triển nông-lâm-thủy sản gắn với du lịch, tạo ra mối quan hệ tương hỗ trong mối quan phát triển bền vững.
Từng bước hình thành tổ hợp nông-công nghiệp-dịch vụ công nghệ cao theo các lĩnh vực (nông, lâm, thủy sản), gắn kết chặt chẽ với nông dân và hướng tới xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp đa chức năng, phát triển bền vững, hướng đến các dự án chế biến nông sản, tổ hợp phức hợp sản xuất chăn nuôi, trồng trọt, chế biến nông lâm sản…
Bên cạnh đó, xúc tiến tổ chức tìm hiểu và khai thác thị trường tín chỉ cacbon để mua bán và chuyển nhượng 0,8-1 triệu tấn CO2 với giá trị từ 4-5 triệu USD. Đây là nguồn thu lợi quý vừa đạt hiệu quả kinh tế và môi trường, giải quyết sinh kế cho xã hội.
Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI