Tiền Giang là cửa ngõ giao thương quan trọng về nông - thủy sản hàng hoá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Với tiềm năng lớn trong sản xuất lương thực thực phẩm và nhận rõ vai trò quan trọng của ngành nên Tiền Giang đã có những chiến lược để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển đóng góp to lớn trong việc bảo đảm an ninh lương thực.
Tiềm năng lớn
Với diện tích đất tự nhiên trên 248.400 héc-ta, đất sản xuất nông nghiệp chiếm 77%, là điều kiện để Tiền Giang trở thành tỉnh trọng điểm về sản xuất lương thực, thực phẩm, trong đó lúa gạo có vị trí hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế của người nông dân tỉnh Tiền Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Trong 4 tháng đầu năm 2012, sản lượng lúa của Tiền Giang tăng 3,6%, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tăng 3,8%. Tiền Giang là tỉnh có truyền thống chăn nuôi phát triển khá mạnh ở ĐBSCL, trong đó đáng kể nhất là chăn nuôi heo và gia cầm. Chăn nuôi heo giữ vai trò quan trọng, với giống heo ngoại, heo lai, đồng thời nâng cấp các cơ sở sản xuất giống.
Theo ông Nguyễn Thanh Cẩn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tiền Giang thì trong những năm qua, ngành nông nghiệp của tỉnh đã không ngừng thúc đẩy tăng cường các hoạt động khoa học trong ngành. Những thành tựu khoa học công nghệ cùng với chính sách đổi mới đã góp phần nâng sản phẩm nông nghiệp tăng lên về năng suất và mang tính đột phá tạo tiền đề cho những thay đổi trong đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, tạo ra khả năng cạnh tranh ngày càng cao của hàng hóa nông sản. Nhiều mô hình lúa, cây ăn trái, cá tra sản xuất đạt chiểu GlobalGAP, VietGAP, SQF 1000 đã được triển khai.
Theo dự báo của các chuyên gia, trong thời gian tới phát triển kinh tế lúa, gạo sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức như diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, năng suất cây lương thực tăng chậm,… Trước thách thức này, tỉnh Tiền Giang đã đi trước đón đầu trong việc bảo đảm an ninh lương thực tỉnh đã chủ động xây dựng “Chương trình phát triển lúa, gạo của tỉnh giai đoạn 2011- 2015”. Theo đó, phát triển lúa gạo trong giai đoạn tới là sản xuất ổn định, tích cực góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa của tỉnh một cách bền vững.
Vì vậy, kế hoạch đến năm 2015, diện tích gieo trồng 220.200 héc-ta, năng suất 55,85 tạ/héc-ta (trong đó diện tích canh tác lúa của tỉnh khoảng 75.866 héc-ta), sản lượng đạt 1.230.000 tấn và tham gia xuất khẩu mỗi năm từ 200.000 - 250.000 tấn gạo; phấn đấu đến năm 2015 có vùng lúa nguyên liệu chất lượng cao, đặc sản khoảng 70.000 héc-ta, đạt 80- 90% diện tích canh tác, sử dụng giống cấp nguyên chủng, xác nhận 1, xác nhận 2 từ 60 - 70% diện tích; tập trung thâm canh tăng năng suất, tăng chất lượng lúa đặc sản, lúa chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng; đẩy nhanh việc hình thành các vùng sản xuất lúa hàng hóa, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tăng giá trị và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích. Ở những vùng chịu áp lực của biến đổi khí hậu cần bố trí thời vụ hợp lý để xóa thế độc canh cây lúa, hạn chế tổn thất thấp nhất.
Tăng cường ứng dụng khoa học để nâng cao năng suất
Tỉnh Tiền Giang không ngừng đẩy mạnh công tác nghiên cứu và triển khai áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bước đầu thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất đem lại hiệu quả cao, giảm sức lao động, tăng năng suất và lợi nhuận để từ đó đáp ứng được nhu cầu mục tiêu đề ra.
Đáng chú ý là nhiều tiến bộ kỹ thuật tiếp tục được ứng dụng và chuyển giao vào sản xuất thông qua các chương trình giống, khuyến nông; bảo vệ thực vật; “3 giảm, 3 tăng”; dự án sản xuất lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP với mô hình “sử dụng công nghệ sinh thái để quản lý rầy nâu và bệnh virút trên lúa”,… góp phần tăng năng suất, sản lượng, chất lượng, hạ giá thành sản xuất lúa gạo. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp không ngừng được củng cố và hoàn thiện, nhất là hệ thống thủy lợi; làm tốt công tác quản lý dịch hại, khống chế được bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, khắc phục hậu quả thiên tai; hoạch định đúng hướng phát triển kinh tế lúa, gạo theo hướng an toàn, chất lượng. Bên cạnh đó, nông dân Tiền Giang có trình độ thâm canh cao, cần cù, chịu khó và nhạy bén trong việc tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.
Trên cây ăn trái hoạt động này cũng được tập trung về giống chất lượng cao, đặc sản, cải tạo, trẻ hóa vườn. Theo ông Cẩn thì tỉnh đã tích cực xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác cho từng loại CAT. Áp dụng IPM, biện pháp sinh học như các loại nấm ký sinh trên côn trùng để phòng trừ dịch bệnh. Cùng với đó là kết hợp với Viện nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam và Trung tâm quốc tế nghiên cứu nông nghiệp Nhật Bản thực hiện mô hình sinh học phòng chống tái nhiễm bệnh vàng lá Greening trên cây có núi bằng biện pháp trồng xem canh cây ổi trong vườn cây có múi có bước đầu đã cho kết quả khá tốt.
Về lĩnh vực chăn nuôi thì hàng năm Tiền Giang thường xuyên nhập con giống, đàn heo được cải thiện theo hướng nạc hóa. Ở lĩnh vực thủy sản việc ứng dụng các chế phẩm sinh học được thực hiện trên các mô hình nuôi thâm canh mật độ cao như nuôi tôm sú công nghiệp và bán công nghiệp, nuôi cá tra thâm canh để phòng trị bệnh và xử lý môi trường nước nhằm cải thiện môi trường ao nuôi…. Đầu tư các trang thiết bị và phòng xét nghiệm bệnh thủy sản giúp chuẩn đoán kịp thời mần bệnh xảy ra và có biện pháp phòng bệnh kịp thời và hữu hiệu đối với các loài thủy sản nuôi góp phần cho sự phát triển bền vững của nghề nuôi sản trong tỉnh.
Minh Hà
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI